Sự thống nhất của Bắc Nguỵ Ngũ Hồ thập lục quốc

Thời kỳ 386-394
  Đông Tấn
Bắc Ngụy thống nhất miền Bắc Trung Quốc, mở ra cục diện Nam Bắc triều:
  Bắc Ngụy

Xé nát Tiền Tần

Đại quân Tiền Tần của Phù Kiên chạy về bắc, tan rã từng mảng. Nhân sự suy yếu của Tiền Tần, các tướng dưới quyền bắt đầu thực hiện ý định ly khai, tái lập thế chia cắt Ngũ Hồ ở miền bắc như trước đây.

Thực ra, nguy cơ tái chia cắt đã tồn tại ngay khi Phù Kiên thống nhất, vì trong hàng ngũ tướng sĩ của ông, có nhiều người dị tộc được ông thu phục, đã manh tâm ly khai.

Khi cầm đại quân xuống phía nam, Phù Kiên đã giao cho tướng Lã Quang đi dẹp các nước thiểu số phía tây thuộc nước Tiền Lương cũ. Dẹp xong vùng Tây Lương, Quang nhân Phù Kiên bại trận bèn cắt đất Lương xưng làm Lương vương, lập ra nước Hậu Lương (384).

Năm sau, một thủ lĩnh người Tiên Ty khác là Khất Phục Quốc Nhân cũng nổi dậy xé đất Tần, lập ra nước Tây Tần (ở vùng Cam Túc ngày nay).

Ngay năm 383, các tướng họ Mộ Dung, con cháu nước Tiền Yên cũ, đã tách riêng khỏi đại quân Tiền Tần tháo chạy về phía bắc, lập lực lượng riêng chống lại Phù Kiên. Ngay trong hàng ngũ các tướng họ Mộ Dung cũng chia cắt và không thần phục nhau. Con Tiền Yên vương Mộ Dung Tuấn là Mộ Dung Thùy lập ra nước Hậu Yên, một tướng khác là Mộ Dung Xung chiếm vùng Sơn Tây lập ra nước Tây Yên.

Năm sau, một bộ tướng người Khương, cũng từng được Phù Kiên cho hàng không giết trong khi thống nhất phương bắc là Diêu Trường, nhân bị sai đi đánh Tây Yên bại trận, sợ bị Phù Kiên bắt tội, bèn ly khai, lập ra nước Hậu Tần.

Dòng dõi nước Bắc Đại cũ là Thác Bạt Khuê, được một số cựu thần trung thành, nhân khi thiên hạ đại loạn, đón lập làm vua, tái lập nước Bắc Đại, đến năm 386 đổi tên là Nguỵ, sử gọi là Bắc Nguỵ.

Như vậy, chỉ sau một thời gian rất ngắn sau trận Phì Thuỷ, miền bắc lại bị chia cắt trở lại, trên bản đồ phía bắc có sự tồn tại của 7 quốc gia.

Ngũ Hồ tái hỗn chiến

Tần diệt Tần, Yên nuốt Yên

Mộ Dung Thùy nắm trong tay lực lượng khá mạnh cũ của Tiền Tần, nên nhanh chóng phát triển nước Hậu Yên thành nước lớn, đóng đô ở Trung Sơn.

Hai nước Tây Yên và Hậu Tần liền kề với đất Tiền Tần nên xung đột xảy ra ác liệt. Năm 385, Phù Kiên bị quân Tây Yên của Mộ Dung Xung cũng kéo đến đánh Tiền Tần để báo thù họa vong quốc năm 371, vây đánh ở Trường An, phải phá vây ra ngoài. Cùng lúc đó quân Hậu Tần của Diêu Trường thừa cơ đón bắt giết Kiên. Một số triều thần sót lại của Tiền Tần lập con Kiên là Phù Phi lên ngôi ở Nghiệp Thành, nhưng nhanh chóng bị quân Tây Yên đánh bại. Phù Phi bị tử trận.

Chính trong nội bộ các quốc gia ly khai Tiền Tần cũng vô cùng rối ren. Nước Tây Yên từ năm 384 đến 386 liên tục đổi chủ, họ Mộ Dung chém giết lẫn nhau. Cuối cùng, năm 386, Mộ Dung Vĩnh giành được ngôi vua. Nhưng lúc đó Tây Yên đã suy yếu, bị mất Trường An vào tay Hậu Tần.

Năm 386, nghe tin vua Tiền Tần là Phù Phi bị giết, cháu họ của Phù Kiên là Phù Đăng được lập làm vua. Các vua Tiền Tần nối đời kế tục nhau chiến tranh với Hậu Tần của Diêu Trường, nhưng cuối cùng đều bị cha con Diêu Trường - Diêu Hưng đánh bại. Năm 394, Phù Đăng bị quân Hậu Tần của Diệu Hưng giết chết. Phù Sùng được lập lên thay, nhưng vẫn không xoay chuyển được tình thế. Phù Sùng bị quân Hậu Tần đánh bại, bỏ chạy về phía tây, bị quân Tây Tần bắt giết. Nước Tiền Tần mất.

Hậu Tần diệt được Tiền Tần, phát triển thành nước lớn phía tây. Trong khi đó, Hậu Yên vương Mộ Dung Thùy không muốn họ tộc Mộ Dung bị chia rẽ, bèn mang quân đánh Tây Yên. Năm 394, Mộ Dung Thùy giết được Mộ Dung Vĩnh, diệt nước Tây Yên. Hậu Yên cũng trở thành nước lớn. Về cơ bản, Hậu Tần và Hậu Yên đóng ở vị trí như Tiền Tần và Tiền Yên trước đây.

Hai nước Yên mới

Tuy nhiên, cục diện đó lập tức bị phá vỡ. Nước Ngụy của Thác Bạt Khuê nhanh chóng lớn mạnh, cất quân nam tiến, đánh Hậu Yên. Quân yên không chống nổi, thái tử Mộ Dung Bảo liên tục bị thua trận. Mộ Dung Thùy phải tự tay cầm quân tạm đẩy lui được quân Nguỵ, nhưng không lâu sau thì già yếu mà mất (396).

Quân Ngụy lại nam tiến, lấy đất Hậu Yên như tằm ăn lá dâu. Vùng Hà Nam, Hà Bắc bị quân Ngụy chiếm. Hậu Yên rút lên phía bắc, chỉ bao gồm đất của nước Yên cổ thời Chiến Quốc xưa kia. Cùng lúc đó nội bộ Hậu Yên lại xảy ra tranh đoạt, chém giết lẫn nhau, khiến liên tiếp chỉ trong chưa đầy 10 năm, các vua Mộ Dung Bảo (398), Mộ Dung Thịnh (401), Mộ Dung Hy (407) đều bị giết. Một người con nuôi của Mộ Dung Bảo là Cao Vân giết Hy làm vua, nhưng không lâu sau bị quyền thần giết chết (409). Một đại thần người Hán là Phùng Bạt được lập lên ngôi, đổi quốc hiệu là Bắc Yên, vì khi đó nước Yên nằm ở phương bắc, để phân biệt với nước Nam Yên.

Khi Hậu Yên bị Ngụy xâm chiếm, một người con của Mộ Dung Thùy là Mộ Dung Đức bỏ chạy về vùng Sơn Đông, bị tách khỏi lực lượng của Mộ Dung Bảo, không thể liên hệ được. Nghe tin Mộ Dung Bảo bị giết (398), Đức bèn chiếm lấy vùng Hoài Bắc, giáp với Đông Tấn, xưng làm Nam Yên vương. Trên thực tế Nam Yên và Bắc Yên đều rất nhỏ bé, không có đủ thực lực để tái lập sự hùng mạnh của Tiền Yên.

Chia nhỏ Hậu Lương

Tại nước Hậu Lương, sau khi vua sáng lập Lã Quang chết (399), nội bộ cũng lục đục, những người trong họ tranh nhau quyền, giết hại lẫn nhau. Các bộ tộc lân cận thừa cơ ly khai, chia cắt nước Hậu Lương lớn thành 4 nước nhỏ: người tộc Hung Nô là Thư Cừ Mông Tốn dựng Đoàn Nghiệp làm vua Bắc Lương, người Tiên Ty là Thốc Phát Ô Cô lập ra nước Nam Lương, người Hán là Lý Cảo lập ra nước Tây Lương. Cùng lúc đó nước Hậu Lương vẫn chưa mất hẳn.

Tới năm 403, cháu Lã Quang là Lã Long bị vua Hậu Tần là Diêu Hưng diệt. Trên bản đồ phía bắc khi đó có 8 nước: Bắc Ngụy (lớn nhất), Bắc Yên, Nam Yên, Hậu Tần, Tây Tần, Bắc Lương, Nam Lương, Tây Lương.

Cá lớn nuốt cá bé

Chiến tranh sinh tồn giữa Đông Tấn và Ngũ Hồ vẫn ác liệt. Năm 407, hậu duệ của một tộc người Hung Nô, con của Lưu Vệ Thần - thủ lĩnh người Hung Nô bị Thác Bạt Khuê đánh bại khi dựng nước Ngụy năm 386 - tên là Lưu Bột nổi dậy ở miền bắc, đổi họ là Hách Liên[7]. Hách Liên Bột Bột vốn là thuộc tướng của Hậu Tần. Diêu Hưng phân cấp cho ông 5 bộ Tiên Ti và hơn 2 vạn người Hồ trấn thủ phương bắc, vì đó ông được nắm quân tự lập ra nước Hạ, định đô ở Thống Vạn (Hành Sơn, Thiểm Tây).

Năm 410, tướng Đông Tấn là Lưu Dụ diệt nước Nam Yên của cháu Mộ Dung Đức là Mộ Dung Siêu.

Năm 414, vua Tây Tần là Khất Phục Sí Bàn diệt nước Nam Lương của Thốc Phát Nục Đàn.

Năm 417, tướng Đông Tấn là Lưu Dụ lại bắc tiến, chiếm Trường An, diệt nước Hậu Tần của cháu Diệu Trường là Diêu Hoằng. Dụ để con là Nghĩa Chân ở lại giữ Trường An rồi rút quân về. Nhân khi Lưu Dụ mải tranh giành quyền hành trong triều Tấn để chuẩn bị cướp ngôi, không chú ý tới miền bắc, vua Hạ là Hách Liên Bột Bột (Lưu Bột) mang quân đánh chiếm Trường An - kinh đô cũ của Hậu Tần. Lưu Nghĩa Chân bỏ Trường An chạy về nam. Từ đó Hạ cũng thành một nước lớn, thế chỗ của Hậu Tần.

Năm 420, Lưu Dụ cướp ngôi nhà Tấn, lập ra nhà Tống, sử gọi là Lưu Tống.

Năm 421, vua Bắc Lương là Thư Cừ Mông Tốn (cướp ngôi Đoàn Nghiệp năm 401) mang quân diệt Tây Lương của cháu Lý Cảo là Lý Tuân.

Như vậy tới năm 421, trên bản đồ phía bắc chỉ còn các nước: Bắc Nguỵ, Bắc Yên, Hạ, Bắc Lương, Tây Tần.

Năm 431, vua Hạ là Hách Liên Định mang quân diệt Tây Tần. Nhưng cùng năm 431, vua Bắc Ngụy là Thái Vũ Đế Thác Bạt Đảo điều quân đánh Hạ. Nước Hạ vừa qua chiến tranh với Tây Tần, bị quân Ngụy diệt gọn, nước Hạ mất. Thế là 2 nước bị diệt năm 431. Đây cũng là lần duy nhất trong lịch sử nội chiến Trung Quốc, một nước vừa diệt một nước khác lại bị diệt ngay trong 1 năm.

Năm 436, Bắc Ngụy đánh Bắc Yên, bắt vua Yên là Phùng Hoằng. Nước Bắc Lương còn lại trơ trọi cũng không tồn tại được lâu. Năm 439, Thác Bạt Đào đánh Bắc Lương, bắt vua Lương là Thư Cừ Mục Kiền. Cục diện Ngũ Hồ loạn Hoa hơn 100 năm với hơn 20 quốc gia chấm dứt.

Toàn thể phương bắc được thống nhất trong tay Bắc Ngụy. Ở miền nam trong tay nhà Lưu Tống, sử gọi thời kỳ các triều đại nam và bắc nối nhau cai trị hai miền là Nam Bắc triều. Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt.